Examples of using Hartree in Vietnamese and their translations into English
{-}
-
Colloquial
-
Ecclesiastic
-
Computer
Tuy nhiên, năm 1928 J. C. Slater và J. A. Gaunt đã chỉ ra một cách độc lập rằng phương pháp Hartree có thể dựa trên cơ sở lý thuyết hợp lý hơn bằng cách áp dụng nguyên lý biến phân với một ansatz( hàm sóng thử) như là tích của các hàm sóng đơn hạt.[ 4][ 5].
Năm 1927, D. R. Hartree giới thiệu quy trình, ông gọi là phương pháp trường tự hợp, để tính gần đúng các hàm sóng và năng lượng cho các nguyên tử và ion.[ 3] Hartree đã tìm cách với các tham số bán thực nghiệm
trong trường hợp gần đúng của Hartree hay Fock( HF),
cách độc lập rằng phương pháp Hartree không tuân theo nguyên lý phản đối xứng của hàm sóng.[ 6][ 7] Phương pháp Hartree đã sử dụng nguyên lý loại trừ Pauli trong công thức cũ hơn của nó, việc cấm sự xuất hiện của hai electron trong cùng trạng thái lượng tử giống nhau.
Nghiệm thiếu tính phản đối xứng trong phương pháp Hartree khi nó chỉ
Tuy nhiên, Hartree và Hill không đưa ra con số chính xác.
Ngay từ năm 1929, Hartree và Hill đã chỉ ra rằng có.
Phương pháp Hartree- Fock làm
Ngay từ năm 1929, Hartree và Hill đã chỉ ra rằng có một tần số tối ưu.
Hartree( ký hiệu Eh)
Năm 1935, Hartree đã công thức lại phương pháp để phù hợp hơn cho những mục đích tính toán.
Phương pháp Hartree gốc có thể được xem như một phép tính gần đúng cho phương pháp Hartree- Fock bằng việc bỏ qua trao đổi.
Phương pháp được đề xuất đầu tiên của ông được biết đến là phương pháp Hartree, hay tích Hartree. .
Trong 5 sự đơn giản được tóm tắt trong phần" thuật toán Hartree- Fock", vấn đề thứ năm là quan trọng nhất.
Tuy nhiên, nhiều người đương thời của Hartree lại không hiểu lý do vật lý đằng sau phương pháp Hartree:
Hartree giới thiệu quy trình, ông gọi
Hartree đã tìm cách với các tham số bán thực nghiệm
Sau đấy trong thập niên 1930, Douglas Hartree, Vladimir Fock và John Slater phát triển hàm sóng Hartree- Fock nhằm mở rộng mô hình Thomas- Fermi.
Tuy nhiên, nhiều phương pháp như phương pháp Hartree- Fock có thể được sử dụng để ước lượng năng lượng trạng thái cơ bản và hàm sóng của nguyên tử.
Thompson đã đến thăm Hartree và Wilkes ở Cambridge,